30/11/202314:31

GIÁO DỤC ÂM NHẠC TRONG HỌC ĐƯỜNG VÀ VẤN ĐỀ ĐỊNH HÌNH THẨM MỸ ÂM NHẠC CHO GIỚI TRẺ - Phần 2

1.3 Giáo dục âm nhạc bậc THCS

Ở bậc THCS cũng vẫn tiếp tục dạy hát và học thêm các kiến thức về nhạc lý. Nhạc lý trong SGK bậc THCS không phải là dạng nhạc lý thực hành gắn liền với các bài hát, bài Tập đọc nhạc” (TĐN) để học sinh dễ tiếp thu, dễ nhớ mà nhạc lý như một phần lý thuyết riêng, nặng nề và thiếu khoa học. Chẳng hạn ở SGK Âm nhạc lớp 6, bài 1 các em mới làm quen bảy nốt nhạc, bài TĐN số 2 các em đã phải xướng âm một đoạn nhạc ngắn kết hợp bảy nốt nhạc với tiết tấu nốt trắng và nốt đen, đến bài TĐN số 3 đã lại kết hợp với móc đơn, tiếp theo đó là 1 bài xướng âm nhảy quãng 4, quãng 5. Các em chưa nhớ mặt nốt đã bắt kết hợp với tiết tấu, xử lý quãng nhảy xa nên đa số các em học bằng cách nghe thầy đọc liền viết tên lên nốt và cứ thế hát theo, bôi chữ đi là không đọc được và đó cũng là lí do vì sao suốt chín năm học nhạc ở trường phổ thông không em nào đọc tên, xướng âm hoặc viết đúng được một nốt nhạc (ngoại trừ các em được gia đình cho học nhạc riêng). Lên các cấp lớp tiếp theo kiến thức nhạc lý còn được nhồi dữ dội hơn với các bài như: cấu tạo quãng, điệu thức trưởng, thứ, hợp âm ba trưởng – thứ, hợp âm bảy, vòng dấu hóa, dịch giọng…mà thực tế trong suốt chương trình âm nhạc THCS hầu như không vận dụng đến những kiến thức này nên các em không thể nhớ và giờ học âm nhạc lẽ ra phải hấp dẫn, sinh động, trở nên khô khan, chán ngắt.

Về những kiến thức âm nhạc kinh điển ở chương trình lớp 6 có một tiết được nghe giới thiệu sơ qua về cuộc đời của nhạc sĩ Mozart và nghe tiểu phẩm “Khát vọng mùa xuân” (đây cũng là tác phẩm duy nhất của Mozart được giới thiệu ở chín năm học phổ thông, lập đi lập lại ở lớp 2, 6 và 8). Lớp 7 có một tiết giới thiệu về các nhạc cụ phương tây (piano, guitare, violin, acordeon) và một tiết được nghe giới thiệu khái quát về cuộc đời của nhạc sỹ Beethoven. Lớp 8 có một tiết học về Chopin và nghe tác phẩm của ông, một tiết giới thiệu sơ lược về các loại “nhạc đàn” (theo từ của SGK) gồm nhạc chuyển thể, sonate, giao hưởng, concerto..., ngoài ra còn có hai “bài đọc thêm”: “Schubert” và “Hợp xướng”, “Bài đọc thêm” mang ý nghĩa đọc thì biết thêm, không đọc thì thôi nên hầu như các kiến thức trong những bài này không được chú trọng. Chương trình lớp 9 môn Âm nhạc chỉ được học một học kỳ, phần kiến thức âm nhạc thế giới được giới thiệu duy nhất nhạc sỹ Tchaikovxki.

Như vừa điểm qua thì chúng ta có thể thấy trong suốt bốn năm học THCS các em chỉ có 5 tiết học về âm nhạc kinh điển thế giới.

Phần âm nhạc truyền thống ở lớp 6 có 2 ca khúc dân ca trên 19 bài được sử dụng trong chương trình, lớp 7 tỷ lệ là 2/16, lớp 8 là 2/23 và lớp 9 là 1/9. Các kiến thức về âm nhạc truyền thống được giới thiệu trong bậc học này như sau:

Lớp 6:

Ba bài: Giới thiệu qua về điệu Lý, sơ lược về dân ca Việt Nam, Giới thiệu một số nhạc cụ truyền thống: Chuông, Mõ, Sáo, Bầu, Tranh, Nhị, Nguyệt, Trống.

Lớp 7:

Bốn “Bài đọc thêm”: Giới thiệu cây đàn Bầu, Hội Lim, Hội xuân Sắc Bùa, tiếng sáo Việt Nam, đàn Tranh.

Lớp 8:

Một bài “Âm nhạc thường thức” về các nhạc cụ truyền thống của dân tộc Tây Nguyên: Cồng, Chiêng, đàn T’rưng, đàn Đá, Một “Bài đọc thêm”: Bát âm thời cổ và dàn bát âm.

Lớp 9:

Chỉ có duy nhất một bài “Một số ca khúc mang âm hưởng dân ca” giới thiệu một số ca khúc mang âm hưởng dân ca Bắc bộ, vùng núi phía Bắc, dân ca Trung bộ, Nam bộ và Tây Nguyên.

Nhìn chung thì có vẻ cũng đầy đủ nhưng thật ra theo như lời các em nhận xét thì chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”, các thầy cô nếu ai chịu khó thì tìm kiếm băng đĩa, hình ảnh, các đoan video trên mạng cho nghe, xem, còn không thì coi như học “chay”.

Qua phần tìm hiểu về chương trình giảng dạy âm nhạc từ bậc mầm non đến THCS (THPT không còn học môn Âm nhạc nữa) chúng ta có thể thấy bộ môn này hầu như dạy hát là chính, mà là hát cho thuộc bài chứ không phải học thanh nhạc, phần nhạc lý khô khan, nặng nề, thiếu khoa học và thiếu tính ứng dụng, âm nhạc truyền thống cũng cố gắng đưa vào nhưng rất qua loa còn mảng âm nhạc kinh điển thì quá ít. Cá em không thường xuyên được nghe, thưởng thức các tác phẩm âm nhạc kinh điển thế giới qua đó định hình và phát triển thầm mỹ âm nhạc, không thường xuyên được nghe các làn điệu dân ca cũng như các thể loại âm nhạc truyền thống khác để thấy cái ha, cái đẹp của văn hóa nói chung và âm nhạc truyền thống Việt Nam nói riêng. Còn phần thực hành trên các nhạc cụ phương Tây cũng như nhạc cụ truyền thống gần như là con số không. Việc học nhạc của các em chỉ một buổi một tuần và chủ yếu là học hát, học lý thuyết âm nhạc khô khan, không nghe, không chơi nhạc cụ nên ta có thể thấy thời gian các em được tiếp xúc với nền âm nhạc nghiêm túc, có học thuật rất ít. Chính vì họckhông đi đôi với hành như vậy mà thẩm mỹ âm nhạc của các em không được định hình và phát triển đúng hướng. Ngay việc chọn lựa các bài hát ít quen thuộc, một số bài không phù hợp với lứa tuổi, đưa vào sử dụng trong chương trình giảng dạy nên đa số các em không hào hứng, học xong là quên ngay và mò mẫm tìm các ca khúc đang thịnh hành trên mạng, đài phát thanh, truyền hình trong và ngoài nước, hoặc bắt chước nghe, hát theo các bạn cùng trang lứa.

Bên cạnh đó, sự định hướng thẩm mỹ âm nhạc của các nhà sư phạm trong trường học hiện nay cũng cần lưu ý. Nếu ai có dịp tham dự các chương trình văn nghệ học đường thì sẽ thấy một tình trạng đang diễn ra: đa số các tiết mục văn nghệ trong trường học hiện nay là các bài nhạc, điệu nhảy nước ngoài, bài nào, điệu nào thế giới đang thịnh hành nhất là trong học đường có ngay, thầy cô không hề có sự định hướng để cân bằng giữa nhạc ngoại và nhạc Việt, nhạc thị trường và nhạc học đường (nhất là ở bậc trung học). Thậm chí có những trường hợp học sinh chọn một số tiết mục hát về thầy cô trong ngày khai giảng, ngày 20/11 bị thầy gạt đi vì lý do: “hát chi mấy bài đó buồn quá”, các cháu hát “You raise me up”.... thì được giáo viên ủng hộ.

Việc thẩm mỹ âm nhạc không được phát triển đúng hướng không những tạo sự lệch lạc trong thưởng thức nghệ thuật mà còn dẫn đến lệch lạc cả trong ứng xử (như đã nêu ở phần mở đầu) bởi vì âm nhạc không đơn thuần là giải trí mà nó còn ảnh hưởng rất nhiều trong việc định hình nhân cách.

Còn tiếp...